Marina Saigon Villa - Ho Viet Vinh Architect & Partners

Lifestyle in marina has its own taste and the lifestyle at Marina Saigon Villa is special in the way you enjoy your own life. Even if you’ve never owned a yacht, you’ll easily join the club of hobby-loving descendants of nineteenth-century European aristocrats. Starting from the Marina with sparkling turquoise sails at the place of every villa, you manually control the yacht to satisfy conquering emotional moments.

Every time you step on the yacht, you will understand that time is never an issue for you to come to the trading center and stock exchange right in the heart of Saigon Trade Center.

  • After a few minutes on the yacht, you have touched your favorite golf club.
  • About 30 minutes to cross the Saigon River to enjoy the fresh air in Can Gio Unesco Biosphere Reserved and only that much time to go upstream to Cu Chi tunnels or anywhere you want to go.
  • Discover the beauty of the landscape of the vast river and sky.

PROJECT INFO

Type:Residential
Year:2015
Area:20 hectares
Location:District 2, Ho Chi Minh City
Team:Ho Viet Vinh
Tran Thanh Hai
Nguyen Dinh Nhat Thu
Truong Anh Thu

Next project | Vinhho Art Studio

In the bustling urban rhythm of Phan Xich Long’s vibrant food street, Vinhho Art Studio, the sanctuary of self training – painter Ho Viet Vinh, nestles quietly in a small alley typical of Saigon. The surrounding air hums with the everyday sounds of urban life and the rich aromas of street food delicacies.

Inside the compact studio where the artist crafts his paintings, everything appears orderly. The space is adorned with a variety of experimental works, each reflecting his diverse artistic journey. At the center of the room stands an old, slightly tilted wooden easel, holding an unfinished painting. The bold and uninhibited strokes on the canvas mirror the essence of the artist himself.

For those fortunate enough to explore the evolution of Vinhho’s artistry from his earliest days, each painting tells a distinct story, conveying profound messages about life, humanity, and especially nature. Through his brushstrokes, Ho Viet Vinh channels the most authentic emotions, inviting viewers to share in his perspective.

While the city outside thrums with its noisy, dynamic energy, this small studio offers a serene haven – a private world where Ho Viet Vinh and his collaborators dedicate themselves to crafting works of art that contribute to celebrating the breathtaking beauty and wonder of Vietnam.

Each painting tells a distinct story, conveying profound messages about life, humanity, and especially nature @ Vinhho Art Studio 2024

Next project | ĐỊNH HÌNH KHÔNG GIAN MẶT NƯỚC TRONG CẤU TRÚC ĐÔ THỊ THEO HƯỚNG TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ KHAI THÁC KINH TẾ DU LỊCH VÀ SINH THÁI – THỰC TIỄN TẠI VĨNH LONG

Nhóm nghiên cứu: Ông Bùi Văn Nghiêm – Bí thư Tỉnh Uỷ Vĩnh Long; Ông Hồ Viết Vinh- Chuyên gia Qui hoạch đô thị; Ông Thạch Phước Hùng- Chuyên gia kinh tế nông nghiệp; Ông Nguyễn Thanh Phong- Chuyên gia Qui hoạch cộng đồng.

1. Dẫn nhập:

Trước thách thức của biến đổi khí hậu và nhu cầu phát triển bền vững, việc định hình không gian mặt nước trong cấu trúc đô thị đang trở thành một yếu tố then chốt, không chỉ giúp bảo vệ môi trường mà còn mở ra cơ hội khai thác tiềm năng du lịch và phát triển kinh tế sinh thái. Đặc biệt, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) với mạng lưới sông ngòi chằng chịt là một ví dụ điển hình cho cách mà việc quy hoạch không gian mặt nước hợp lý có thể góp phần vào phát triển kinh tế và cải thiện chất lượng sống của người dân. Trong bài tham luận này, chúng tôi tìm hiểu các khía cạnh lịch sử và thực tiễn của quá trình chỉnh trị kênh rạch, từ thời kỳ Chúa Nguyễn qua thời Pháp thuộc đến giai đoạn nay. Đồng thời, chúng tôi sẽ phân tích bài học thực tiễn từ các quốc gia có kinh nghiệm về quản lý và khai thác không gian mặt nước như Hà Lan. Bài tham luận cũng sẽ giới thiệu các dự án thực tiễn của Chúng tôi tại tỉnh Vĩnh Long – một trong những khu vực giàu tiềm năng để phát triển các mô hình đô thị và không gian sống ven sông, tạo điều kiện cho du lịch sinh thái phát triển, cũng như cải thiện sinh kế cho cộng đồng.

2. Thực trạng sử dụng đất nông nghiệp và tình hình biến đổi khí hậu tại Vĩnh Long:

Vĩnh Long, với lợi thế đất phù sa màu mỡ và hệ thống sông ngòi chằng chịt, từ lâu đã là vùng nông nghiệp, cây ăn trái quan trọng của Đồng bằng sông Cửu Long.

Tuy nhiên, tình hình biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng đến hơn một nửa diện tích đất đai tự nhiên của Tỉnh. Trước thực trạng đất đai đô thị bị chia nhỏ, sử dụng chưa hiệu quả, kết hợp với biến đổi khí hậu tác động sâu rộng, đã đặt ra những thách thức lớn cho phát triển đô thị bền vững và kinh tế nông nghiệp của tỉnh.

2.1. Tình hình xâm nhập mặn:

Xâm nhập mặn đã ảnh hưởng đến hơn một nửa diện tích tự nhiên của tỉnh, gây suy giảm chất lượng đất và giảm năng suất cây trồng, tác động trực tiếp tới các vùng sản xuất nông nghiệp ven sông Hậu và sông Cổ Chiên, sông Măng Thít. Theo các kịch bản mô phỏng nguy cơ xâm nhập mặn thì ranh mặn 1,5g/l đến năm 2050 lên tới khu vực thành phố Vĩnh Long, điều này ảnh hưởng đến hoạt động cấp nước sinh hoạt của thành phố Vĩnh Long.

2.2. Đô thị dàn trải, quỹ đất đô thị ngày càng hạn hẹp:

Diện tích tự nhiên toàn Tỉnh Vĩnh Long: 152.573 ha;

Diện tích đất đô thị: từ 10.021 ha (năm 2020) tăng lên 12.652ha (năm 2030);

Dân số tỉnh:

+ Năm 2020: 1.023.000 người. Mật độ dân số bình quân: 6,70 ng/ha;

+ Năm 2025: 1.029.500 người. Mật độ dân số bình quân: 6,75 ng/ha;

+ Năm 2030: 1.031.000 người. Mật độ dân số bình quân: 6,76ng/ha.

Diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người (2030): 0,116 ha/người.

2.3. Biến đổi khí hậu:

Đánh giá nguy cơ ngập đến năm 2050, theo kịch bản RCP4.5, tỷ lệ ngập tại thành phố Vĩnh Long, thị xã Bình Minh lần lượt là 60,95%, và 44,12%, với kịch bản RCP8.5 là 63,81% và 44,91%. Mức nước biển dâng theo kịch bản RCP4.5 và RCP8.5 lần lượt là 23cm và 28cm. 

2.4. Diện tích mặt nước lớn:

Tổng diện tích mặt nước lớn hơn 20,13%, trong đó hơn 10,13%diện tích nước mặt bao gồm hệ thống sông ngòi, kênh rạch và 10% diện tích vùng ngập tự nhiên theo triều.

Nguồn nước mặt của tỉnh Vĩnh Long phụ thuộc vào 4 dòng sông lớn chảy qua là sông Tiền, sông Cổ Chiên, sông Hậu và sông Măng Thít; ngoài ra, còn có khoảng 90 sông rạch lớn khác như: Long Hồ, Ba Kè, Cái Vồn Lớn, Cái Cam, Ba Càng, Cái Ngang, Mỹ Thuận, Vũng Liêm, Ngã Chánh, Trà Ngoa, Cái Nhum, rạch Chà Và, Bưng Trường, Hòa Tịnh, Cái Sao,…và nhiều kênh, rạch khác tạo thành hệ thống kênh rạch khá chằng chịt, phân bố đều khắp trong tỉnh và chiếm tỷ lệ 10,13% tổng diện tích tự nhiên (cao hơn vùng ĐBSCL là 5,79% và cả nước là 3,26 %).

Để đối mặt với những thách thức hiện nay, Vĩnh Long cần chuyển đổi mô hình phát triển theo hướng đô thị tích hợp, kết hợp hài hòa giữa khu ở, dịch vụ và không gian xanh, khai thác tốt không gian mặt nước cho phát triển đô thị và các hoạt động kinh tế. Đồng thời, tỉnh cần đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp theo tiêu chuẩn: nông nghiệp thông minh, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái,… nhằm tăng năng suất, bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân.

3. Quá trình chỉnh trị sông ngòi, kênh rạch tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) dưới góc nhìn lịch sử khẩn hoang:

3.1. Mạng lưới nước cấp Vùng:  Quá trình chỉnh trị sông ngòi và kênh rạch tại Đồng bằng sông Cửu Long trải qua nhiều giai đoạn lịch sử từ thời kỳ khẩn hoang đến thời Pháp thuộc và kéo dài đến hiện nay. Ban đầu, khu vực này được triều Nguyễn quan tâm phát triển hệ thống kênh rạch để mở rộng đất canh tác và phát triển giao thông thủy. Đáng kể nhất là công trình đào kênh Vĩnh Tế, bắt đầu từ năm 1819 dưới thời vua Gia Long, với mục đích phát triển nông nghiệp, ngăn chặn giặc ngoại xâm và tạo điều kiện giao thương. Đến thời Pháp thuộc, chính quyền thực dân đã đẩy mạnh việc nạo vét và mở rộng hệ thống kênh rạch nhằm phục vụ cho mục tiêu khai thác thuộc địa, đặc biệt là để vận chuyển hàng hóa như lúa gạo từ ĐBSCL đến Sài Gòn và các cảng quốc tế. Năm 1875, một ủy ban thường trực đã được thành lập để quản lý và hoàn thiện mạng lưới đường thủy từ Sài Gòn đến các tỉnh miền Tây, trong đó có việc đào mới và mở rộng nhiều kênh như Cột Cờ, Nước Mặn và Trà Ôn. Thời kỳ Toàn quyền Paul Doumer (1897-1902) đánh dấu bước ngoặt lớn trong việc mở rộng hệ thống kênh rạch, với các công trình quy mô lớn như kênh Rạch Giá – Hà Tiên, nhằm khai thác và mở rộng vùng tứ giác Long Xuyên, từ đó giúp tăng diện tích đất canh tác. Trong giai đoạn từ 1914 đến 1929, hệ thống kênh rạch tiếp tục được mở rộng với khối lượng đào đắp khổng lồ, lên đến 177 triệu mét khối đất cho 1.664km kênh mới.

Hình 1. Các con lộ và các đô thị của vùng châu thổ. Những đường thẳng đậm nét hầu hết thể hiện hệ thống kênh đào và những con lộ hai làn kè bên trong vùng ĐBSCL. Carte Des voies Navigables de Cochinchine công bố năm 1926. Nguồn: wikipedia

Qua các thời kỳ, việc chỉnh trị sông ngòi và phát triển hệ thống kênh rạch không chỉ cải thiện khả năng canh tác, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông, thương mại và góp phần hình thành nên cấu trúc kinh tế – xã hội đặc trưng của ĐBSCL. Đây là nền tảng quan trọng cho sự phát triển bền vững của vùng đất này trong bối cảnh hiện nay.

3.2. Mạng lưới nước tại Vĩnh Long:   Mạng lưới nước tại Vĩnh Long có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, văn hóa và đảm bảo sinh kế bền vững cho cộng đồng địa phương. Đặc điểm nổi bật của mạng lưới này là sự đa dạng và phong phú với hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt. Tỉnh Vĩnh Long nằm giữa sông Tiền và sông Hậu, có hệ thống kênh rạch tự nhiên và nhân tạo phong phú, tạo nên một mạng lưới nước bao phủ khắp khu vực, giúp vận chuyển và lưu thông nước một cách hiệu quả, đồng thời phục vụ cho nông nghiệp và đời sống dân cư.

Hình 2. Bản đồ lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861 của Léopold Paullu de la Barrière. Vĩnh Long là 1 trong 6 vùng thuộc Nam Kỳ lục tỉnh. Cochinchine Francaise bản đồ do ông M. Dutreuil De Rhins vẽ và xuất bản trên Dépôt de la Marine năm 1881. Nguồn: wikipedia

Tỉnh Vĩnh Long có 3 nguồn nước chính từ 3 con sông lớn đi qua, bao gồm: sông Tiền, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên, ngoài ra còn có vô số rạch và kênh đào xẻ ngang xẻ dọc khắp tỉnh. Những con rạch chính như Mang Thít, Sông Ngang, Long Hồ, Bà Kè, Vũng Liêm, Bà Phong, Cái Cá, Cái Cau. Sau khi Vĩnh Long là thuộc địa của Pháp, chính quyền tỉnh đã cho đào nhiều con kênh để nối liền các con rạch với nhau, như là Kênh Thầy Cai, Cái Cau, kênh Chà Và, kênh Bocquet, kênh Ông Me, kênh Bưng Trường, Trà Ngoa, Huyên Thuyền… Hệ thống kênh rạch này đóng vai trò quan trọng trong việc tháo nước và dẫn nước để canh tác.

Hình 3. Bản đồ lịch sử hạt Vĩnh Long năm 1885. L’Arrondissement de Vinh Long. Publié sous la direction de M r. Camouilly Chef de Service du Cadastre conformément aux instruction de M r. Nouét directeur de l’Intérieur. Nguồn: gallica.bnf.fr/

Phân tích cho thấy, hệ thống sông nước ở Vĩnh Long hỗ trợ phát triển nhiều loại hình kinh tế, như canh tác lúa nước, trồng cây ăn trái, đặc biệt là các loại trái cây đặc sản. Ngoài ra, các hệ thống đê bao và bờ kè cũng đã được xây dựng để kiểm soát lũ lụt và bảo vệ mùa màng. Các khu vực có tầng mức ngập khác nhau cũng được tận dụng để phát triển các loại hình nông nghiệp khác nhau như nuôi trồng thủy sản ở vùng ngập sâu và canh tác hoa màu ở vùng ngập nông. Cảnh quan sinh thái của Vĩnh Long không chỉ có giá trị về kinh tế mà còn mang lại tiềm năng lớn cho phát triển du lịch sinh thái, đặc biệt là các hoạt động trải nghiệm và khám phá vùng sông nước Nam Bộ. Nét văn hóa sinh hoạt “trên bến dưới thuyền” từ xưa đến nay vẫn được gìn giữ và phát triển, tạo sức hút du lịch và là nguồn cảm hứng cho việc tái tạo không gian sinh hoạt trên sông nhộn nhịp, sầm uất đặc trưng của miền Tây.

Hình 4. Quang cảnh sinh hoạt trên bến dưới thuyền tại hạt Vĩnh Long. Các công trình tiếp giáp với mặt sông với các không gian kết nối, giao thương, nhộn nhịp, sầm uất. Nguồn ảnh: manhhai flick

Hình 5. Quang cảnh trung tâm Vĩnh Long dọc sông Cổ Chiên năm 1967. Chính giữa là trung tâm tập trung dân cư. Bên trái là rạch Long Hồ (nay là sông Long Hồ), bên phải là rạch Cái Ca (nay gọi là sông Cầu Lộ). Nguồn ảnh: manhhai flick

Nhìn chung, mạng lưới nước tại tỉnh Vĩnh Long không chỉ góp phần vào phát triển kinh tế – xã hội mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc gìn giữ văn hóa truyền thống, bảo vệ môi trường và đảm bảo sự phát triển bền vững cho khu vực này.

4. BÀI HỌC THỰC TIỄN TỪ ĐÊ BAO ĐA TẦNG CỦA HÀ LAN Mô hình đê bao đa tầng của Hà Lan là một giải pháp quản lý nước thông minh, được phát triển nhằm đối phó với tình trạng ngập lụt và xâm nhập mặn thường xuyên xảy ra tại quốc gia này. Thay vì chỉ xây dựng đê bao thông thường, đê bao đa tầng được thiết kế theo cấu trúc phân tầng, cho phép nước tràn vào có kiểm soát và tạo điều kiện cho đất đai phù sa bồi đắp tự nhiên. Đây là một hệ thống phức hợp, vừa bảo vệ an toàn cho khu vực sinh sống và sản xuất của con người, vừa tận dụng được nguồn tài nguyên thiên nhiên để cải thiện chất lượng đất.

Hình 6. Sơ đồ mặt cắt ngang thể hiện môi trường các tầng lắng động ứng dụng mô hình đê bao đa tầng. Nguồn: Michiel J. van der Meulen & Ane P. Wiersma & Marcel van der Perk & Hans Middelkoop & Noortje Hobo (2009). Sediment management and the renewability of floodplainclay for structural ceramics.

Một điểm nổi bật của đê bao đa tầng là tích hợp yếu tố sinh thái và cảnh quan vào hệ thống đê điều. Các tầng đê được thiết kế sao cho phù hợp với mức ngập nước tự nhiên theo mùa, từ đó tạo ra các khu vực ngập nước nông, ngập trung bình và ngập sâu. Mỗi tầng đê được sử dụng cho những mục đích khác nhau: các tầng ngập nông có thể trồng trọt, các tầng ngập trung bình có thể nuôi trồng thủy sản, còn các tầng ngập sâu thường là khu vực bảo tồn sinh thái và cảnh quan. Cách phân tầng này giúp giữ phù sa và cải tạo đất, rất phù hợp cho các vùng đất trũng như Đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam.

Hình 7. Sơ đồ mô hình đê bao đa tầng thể hiện các mức ngập nước khác nhau phù hợp với các mục đích sử dụng cho hoạt động kinh tế nông nghiệp và du lịch. Nguồn: nhóm tác giả

Hơn nữa, đê bao đa tầng còn giúp giảm chi phí và công sức duy trì, vì nó tận dụng thiên nhiên để bồi đắp và tái tạo đất đai thay vì phải nạo vét hoặc xây dựng nhân tạo. Hệ thống này cũng có vai trò quan trọng trong việc phát triển các mô hình kinh tế sinh thái và du lịch. Những khu vực ngập sâu có thể phát triển du lịch sinh thái, thu hút du khách đến trải nghiệm cảnh quan đặc sắc, đồng thời tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng địa phương.

Bài học từ đê bao đa tầng của Hà Lan là một minh chứng cho thấy cách mà con người có thể hài hòa giữa nhu cầu bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế, thông qua việc sử dụng hệ thống quản lý nước thông minh. Đây là mô hình mà Việt Nam có thể áp dụng để giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, bảo vệ an toàn cho người dân và phát triển sinh kế lâu dài tại Đồng bằng sông Cửu Long.

5. MỰC NƯỚC ĐẶC TRƯNG TẠI TRẠM TÂN AN (SÔNG VÀM CỎ TÂY)

Bảng 1: Mực nước đặc trưng năm (cm) trích từ năm 2009 đến năm 2019 Trạm Tân An  – Sông Vàm Cỏ Tây

Bảng 2: Mực nước đặc trưng tháng (cm) Trạm Tân An – Sông Vàm Cỏ Tây

*Nguồn: Đài khí tượng thủy văn khu vực Nam Bộ

Trong quá trình nghiên cứu mực nước các dòng sông lớn tại ĐBSCL, chúng tôi đã có những phân tích, tổng hợp các dữ liệu về mực nước đặc trưng theo tháng và theo năm, đặc biệt là các thông số mức nước tại trạm thủy văn Tân An trên sông Vàm Cỏ Tây.

Các đánh giá và phân tích mực nước trong khoảng thời gian từ năm 1977 đến năm 2019, cho thấy các đặc trưng cao độ mức nước được chia ra theo cao độ thấp (Hmin), trung (Htb), cao (Hmax), tương ứng với 3 mức ngập: khu vực ngập nước sâu, ngập trung bình, ngập nông. Đây là cơ sở để thiết kế mô hình đê bao đa tầng tại khu vực Tân An và các khu vực lân cận có mực nước tương đồng trong khu vực ĐBSCL.

6. CÁC DỰ ÁN ÁP DỤNG LOẠI HÌNH CHỨC NĂNG PHÙ HỢP VỚI DẠNG MẪU ĐÊ BAO ĐA TẦNG ĐỂ KHAI THÁC KHÔNG GIAN MẶT NƯỚC:

6.1.Dự án Vương Quốc Đỏ Mang Thít: Đây là một dự án bảo tồn và phát triển khu Di sản gạch, gốm truyền thống Mang Thít, kết hợp không gian sản xuất và cảnh quan mặt nước. Khu vực này được quy hoạch thành một Di sản đương đại với các tầng chức năng khác nhau: bảo tồn làng nghề gạch gốm, mở rộng không gian sinh hoạt ven sông và tái tạo cảnh quan vùng sông nước đặc trưng của Nam Bộ. Cách tiếp cận đê bao đa tầng giúp duy trì không gian sống ven sông, hỗ trợ sản xuất gốm, và đồng thời phát triển du lịch sinh thái, biến khu vực này thành điểm đến văn hóa và trải nghiệm cho du khách.

Hình 8. Bản đô kiến trúc cảnh quan khu lò gạch, gốm – vương quốc đỏ Mang Thít đến năm 2045. Nguồn: nhóm tác giả

Hình 9. Mặt cắt tổ chức cảnh quan ven sông áp dụng mô hình đa tầng ngập với sắc thái cảnh quan và chức năng khác nhau ven bờ kênh Thầy Cai. Không gian vùng lõi bảo tồn làng nghề gạch gốm. Nguồn: nhóm tác giả

Hình 10. Cảnh quan hai bên bờ kênh Thầy Cai, vùng lõi bảo tồn làng nghề gạch gốm với hệ thống bờ kè mềm đa tầng và bờ cứng bậc cấp xen kẻ kết hợp bến thuyền, không gian dịch vụ gạch gốm được tổ chức ven sông, hổ trợ quá trình chuyển đổi, đồng thời phát triển du lịch sinh thái, biến khu vực này thành điểm đến văn hóa và trải nghiệm cho du khách. Nguồn: nhóm tác giả

Hình 11. Cảnh quan cộng đồng dân cư mới gắn với hệ thống kênh rạch nội khu. Các không gian ven sông được tạo hình bằng bờ kè mềm đa tầng tạo các công năng và sắc thái cảnh quan khác nhau theo mùa ngập. Nguồn: nhóm tác giả

Hình 12. Cảnh quan vùng sản xuất nông nghiệp sinh thái theo tiêu chuẩn gắn với sông nước kết hợp dịch vụ du lịch, trải nghiệm. Nguồn: nhóm tác giả

Hình 13. Cảnh quan cổng chào, vườn cây ăn trái và gạch gốm kết hợp với cảnh quan ven sông theo mô hình kè mềm đa tầng, cung cấp nhiều không gian trải nghiệm khác nhau cho du khách khám phá Làng nghề Gạch Gốm truyền thống ven sông Cổ Chiên.  Nguồn: nhóm tác giả

6.2. Dự án Eco Farm Village: Eco Farm Village là mô hình khu sinh thái thích ứng với nước, bao gồm nhiều tầng không gian canh tác và sinh hoạt tùy theo mức độ ngập nước. Các tầng ngập nông dùng cho việc trồng rau màu, cây ăn trái; trong khi các tầng ngập trung bình và ngập sâu được sử dụng để nuôi trồng thủy sản và tạo cảnh quan sinh thái. Dự án này hướng tới phát triển nông nghiệp bền vững, kết hợp hài hòa giữa canh tác, sinh thái và du lịch sinh thái, cho phép du khách tham quan và trải nghiệm cuộc sống nông thôn miền Tây, đồng thời giữ gìn môi trường tự nhiên.

Hình 14. Vị trí dự án nằm bên bờ sông Cổ Chiên. Nguồn: nhóm tác giả

Hình 15. Sắc thái cảnh quan khu vực dự án – vùng canh tác nông nghiệp, thủy sản ven sông Cổ Chiên. Nguồn: nhóm tác giả

Hình 16. Bản đồ tổ chức KG kiến trúc cảnh quan dự án Eco Farm village. Nguồn: nhóm tác giả

Hình 17. Phối cảnh không gian khu sinh thái thích ứng với nước – dự án Eco Farm village. Nguồn: nhóm tác giả

Hình 18. Nhà ở được thiết kế thích ứng với con nước, các tầng không gian ngập sâu, trung bình, ngập nông được bố trí có chủ đích nhằm tạo ra các góc nhìn cảnh quan khác nhau. Nguồn: nhóm tác giả

6.3. Dự án Đô thị Bình Minh (Water-Based City): Dự án này hướng tới xây dựng một đô thị ven sông hiện đại, dựa trên hệ thống kênh rạch dày đặc của khu vực Bình Minh, với các công viên và không gian sinh hoạt dọc theo các tuyến kênh. Cấu trúc đê bao đa tầng cho phép khai thác các vùng ngập nông và ngập trung bình để bố trí không gian công cộng, khu thương mại và các dịch vụ ven sông. Khu vực ngập sâu và hồ sinh thái được dùng làm công viên chuyên đề, phục vụ nghỉ dưỡng và vui chơi giải trí. Nhờ đó, đô thị Bình Minh không chỉ phát triển kinh tế từ du lịch và thương mại mà còn gìn giữ môi trường, đáp ứng nhu cầu sinh sống, làm việc của cộng đồng dân cư.

Hình 19. Bản đồ hệ thống mạng nước thị xã Bình Minh đến năm 2045. Nguồn: nhóm tác giả

Hình 20. Mặt cắt không gian từ khu vực sông Hậu đến không gian sông nội khu. Các không gian công cộng, thương mại, dịch vụ và các công viên được bố trí ven sông, tạo điều kiện để người dân tiếp cận dễ dàng với mặt nước và các đê bao đa tầng kết hợp cảnh quan sinh thái ven kênh. Nguồn: nhóm tác giả

Hình 21.  Mặt cắt không gian đô thị qua vùng ngập sâu và hồ sinh thái. Các khu vực này được dùng làm công viên chuyên đề, phục vụ nghỉ dưỡng và vui chơi giải trí. Nguồn: nhóm tác giả

Hình 22.  Mặt cắt không gian đô thị trục đại lộ sông nước phía Bắc. Nguồn: nhóm tác giả

7. Kết luận – kiến nghị:

Qua những nội dung trình bày, chúng tôi chỉ ra vai trò thiết yếu của việc quản lý và khai thác không gian mặt nước trong cấu trúc đô thị, đặc biệt là trong bối cảnh biến đổi khí hậu và áp lực gia tăng dân số tại Đồng bằng sông Cửu Long. Với diện tích mặt nước rộng lớn và cảnh quan đặc trưng, Vĩnh Long có tiềm năng khai thác mặt nước để phát triển, mở rộng không gian đô thị và tạo bản sắc sông nước vùng châu thổ Đồng bằng sông Cửu Long. Đặc biệt hình thành các không gian dịch vụ du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng ven sông, kênh rạch. Phương thức này vừa tận dụng được tiềm năng và thế mạnh của vùng đất, vừa hạn chế thấp nhất việc thu hồi đất lúa cho việc chuyển đổi thành không gian đô thị.

Tài liệu tham khảo:

Next project | Thien An Community PARK

THIEN AN HILL

COMMUNITY PARK represents the exchange process between communities coming to a new land to settle down and live. They bring a lot of knowledge, customs and ambitions to create a life in the new land. Community is the space for them to open up, exchange, learn and grow. The process of agglomeration, interference and experimentation between communities has molded a new character for the culture of the historic ancient capital.

The park recreates the process of community formation through 5 main spaces:

  • Meeting space;
  • Exchange space;
  • Agglomeration space;
  • Experimental space;
  • Performance space;

Each space has a form and function that is reproduced through each stage of the process of community and cultural exchange.

Next project | GLINT

GLINT

The interplay of these hues, it conjures images of a visual symphony, each segment of the painting whispering a different melancholic melody or vibrant cheer. This piece truly captures the ineffable ‘glint’ of emotions.

Ho Viet Vinh

Next project | Waterscape

Waterscape, supported by AI

The waterscape of the living complex in the Mekong Delta beautifully embodies the harmony between architecture and nature. Drawing inspiration from the region’s rich waterway traditions, the design integrates fluid forms and organic materials that reflect the surrounding landscapes. The layout, with its interconnected waterways and lush greenery, fosters a sense of tranquility and connection to the environment. Each villa, positioned to maximize views of the water, invites natural light and breezes, enhancing the sensory experience. This approach not only celebrates local culture but also promotes sustainable living, making the project a poignant example of emotional architecture in contemporary design.

Village, sketch by Ho Viet Vinh
Water field, sketch by Ho Viet Vinh
Floating house , sketch by Ho Viet Vinh

Next project | Hue ancient capital looks to the future

Tam Giang Lagoon panorama-Photo: Vinhho

How to build Hue ancient capital city? The question has been raised since the day the Nguyen Dynasty relic in Hue was recognized as a world heritage site by Unesco, especially since the day Hue was decided by the Nation as a typical Festival City, many seminars also mentioned, but until now, no idea has been recognized. It is known that Architect Ho Viet Vinh is a Hue hometown, is teaching at the University of Architecture in Ho Chi Minh City, has done a Master’s thesis about Hue, has many construction works for Vietnam in the 21st century. He has the opportunity to study many ancient capital cities, many ancient cities of the continents of Europe, Asia, America, Australia, Africa, TTH newspaper asked him these questions.

1. TTH newspaper. New spring is coming, TTH newspaper is very happy to meet you. Knowing you are a Hue’s hometown, having studied planning and architecture of the Nguyen Dynasty, could you please tell me what you are thinking about Hue City today?

Arch.Ho Viet Vinh: Hue-The Heritage City is in the process of expanding its boundaries and transforming urban spatial structure. From a strictly ordered city on a large area stretching from the Royal Capital to the villages, gradually transitioning to an irregular and chaotic urban structure. Therefore, the disturbances in urban spatial organization are causing concerns for residents, tourists and even urban experts. An issue placed on the conference table that still has no satisfactory solution is whether this is a normal change of a Heritage City on the path of integration and development or a deviation in orientation. this particular urban development. For a valid argument, we need to go back nearly 700 years to see the treasure of Hue urban heritage values ​​accumulated through historical periods to orient the way for the future. Hue Heritage Urban has been formed through the following stages:

• The period before 1558: the first inhabitants came to Thuan Chau land

• The period from 1558-1775: the migrations to find the land of Phu Xuan capital

• The period from 1802-1885: the plan to build the Capital has the largest scale and the most complete function in urban history.

• The period from 1885-1945: the southern expansion of the Perfume River formed a two-structure urban model: the Vietnamese quarter and the Western quarter.

• The period from 1945-1986: nature-war-planning economy (subsidy period) changed urban spatial structure towards filling urban voids.

• The period from 1986-1993: the formation of subdivisions and the isolation of the heritage in the spatial distance.

• 1993-present period: historical transformation plan to turn medium-scale urban-heritage into large-scale urban area (Thua Thien Hue City under the sixth central government of Vietnam).

Indeed, over a journey of nearly 7 centuries, Hue with its architectural appearance and heritage formed and developed over a long period of time with many historical changes has created a Hue city full of unique characteristics. distinctiveness in the cultural space of Ngu mountain-Perfume river. Hue urban structure identifies the Perfume River as the main layout axis that creates the shape of the Citadel and nurtures the human spirit of Hue. Yet the urban expansion of the late 20th and early 21st centuries has turned its back on the river, creating a pervasive urban structure, stretching and filling in precious gaps in the existing urban structure. 2. You have surveyed and studied many ancient cities, many ancient capital cities, what do you think is different from Hue compared to those ancient cities?

Arch.Ho Viet Vinh: I also had the opportunity to survey and research some heritage cities such as Kyoto-Japan, Siem Reap-Cambodia, Bali-Indonesia, Luang Phrabang-Lao, CapeTown-South Africa, Lyon-France, Casablanca-Morocco must recognize that each city has its own appearance, in harmony with the natural setting. The difference between Hue and these cities is the behavior between people and nature and between people and people. In such a way, the people of Hue have created a slow and relaxed way of life to achieve the wonderful harmony between Man and Nature.

3. What can we learn experiences from these ancient cities?

Arch.Ho Viet Vinh: These heritage cities preserve the form and spirit of the place of history at the time it was born, any interference in the development process is carefully considered not to do damage to the monument whether it is open space or landscaped terrain. The first and most valuable lesson for Hue is that the developed urban structure must accept the Perfume River as the layout axis and respect the central role of the Hue Citadel in the development in harmony with nature. The second lesson is that the concept of heritage adaptation needs to be placed in the context of the new urban environment that is a continuation between the past and the future. New construction within the influence of the heritage must inherit and highlight this continuity based on the spirit of place. Each work, cluster of works must be created based on the unique spirit of the Heritage City. Building a place must match the times, away from the habit of copying and imposing architectural models without selection.

4. How was the construction in that old city?

Arch.Ho Viet Vinh: I would like to mention the conservation and development plans of some heritage cities that Hue can refer to and study.

• The heritage city of Lyon (France): located on an oasis at the confluence of the Le Rhône and Saône rivers, the world heritage space is located on a part of this oasis and another part owned by the Saône river in the area. central position of the urban spatial structure. The traffic axes of the northern belt (péripherique du nord) and the southern belt (péripherique du sud) are located at two ends to avoid affecting this area. The enhancement of connectivity through continuous traffic axes between the historic center and the new urban area. The development model that combines the old and new structures on both sides of this river also ensures the parallel development and conservation goals of this contrasting heritage city.

• The heritage city of Venice (Italy): was selected to develop in a way that completely preserves the spatial structure based on the unique water transportation system in the world. New and old spaces are connected on the same system of canals, creating a common rhythm of spatial continuity as well as increasing the overall harmony. The modern transport system is located far away and ensures that it does not affect the completeness of the urban structure. The model that strictly preserves the compositional character has created a magical heritage city full of romance.

• Kyoto Heritage City (Japan): Kyoto Heritage City is developed sequentially and interlaced between old and new on the existing urban structure, ensuring a balance between construction and urban gaps. The city still preserves Temples-Pagodas-Temples located in the intact mountainous landscape to the east and west of the citadel built in the past, attaching the shape of religious works to the spiritual landscape of the mountains and forests. . Heritage buildings such as the Kyoto Imperial Palace, the old town, pagodas and temples are preserved intact the authenticity of history and spirit of the place. The modern urban area is harmoniously interwoven into the existing urban structure, creating a bustling atmosphere without creating pressure on the historical space.

• Amterdam Heritage City (Netherlands): The heritage city of Amterdam-Netherlands maintains a new system of co-structured canals that create a transitional space between the old urban part and the new urban part to enhance diversity. morphological form of urban space structure and ensure uniformity. 5. What factors help these ancient cities to retain their traditional characteristics while still integrating into modern times and successfully developing their economy in a sustainable way

Arch.Ho Viet Vinh: As I mentioned above, these heritage cities always respect the historical value created by previous generations, even though there are differences in views and attitudes towards the historical role. its history. After all, Heritage is the crystallization of the values ​​and efforts of the community on the ideological foundation of the ruling class, so preserving the heritage is like preserving the nation’s treasure for future generations. thinking and shaping the way for the future. Therefore, there is no antagonism between Conservation and development, conservation is the foundation of development and vice versa, development creates conditions for better conservation. The city is a living entity that moves and develops over time, the architectural heritage that is a component of it also moves and develops. Although the heritage itself does not change, the changing environment leads to a different perception of the heritage and becomes more and more attractive and valuable. Therefore, to manage the Heritage City, it also needs good, enthusiastic and brave people to make appropriate development policies and exploit the treasure value to serve humanity in the spirit of UNESCO, because The reason is that the Heritage is “unique”, there must be a “unique” Person to govern.

6. In order to get rid of the current stagnant situation, what should Hue ancient capital city do to look forward to the future where it can stand side by side with ancient cities in the region and in the world?

Arch.Ho Viet Vinh: In my opinion, it’s time to carry out a plan to rebuild the Heritage City based on the new idea of ​​a Hue City – 21st Century (referred to as Hue 21) developed in parallel with the Citadel. The heritage street in the continuity relationship receives the Perfume River as the main layout axis. This idea will help the Heritage City to escape from the “oil slick” development model of most urban areas in Vietnam, the consequences of which are the encroachment and distortion of historical spaces. In my Master’s thesis on Hue in 2001, I also outlined the shape of the spatial structure of Hue City in the 21st century with a linear urban model (about 8km in length and 2km in average width) located in the center of the city. symmetrically with the Citadel through the lower part of the Perfume River with an area of ​​about 1600 ha. The driving force of urban development extends 8km towards Thuan An estuary, this is an ecological avenue with modern landscapes combined with a network of rivers and canals spreading to the lower Huong River to create a new balance. between modern architectural works surrounded by village ecological environment. The waterways perpendicular to this boulevard were dug up to raise the foundation for construction areas according to traditional feng shui principles.

The urban structure is built according to the 21st century ecological urban model, suitable for new lifestyles and modes of living in order to complete the function of the Heritage City in the future. The concept of Landscape Urban (Paysage urbaine) of heritage city goes hand in hand with the concept of Village Urban (Village urbaine) of the 21st century – An era aimed at protecting the environment and improving the quality of life, perhaps the right choice for the future Hue (see outline diagram).

Hue Urban morphology

7. In your opinion, what has kept Hue City from developing? How to overcome that?

Arch.Ho Viet Vinh: Hue urban architectural heritage is the diversity of spatial forms formed through historical periods, including: the system of Palace and Palace of the Nguyen Chua, Thanh Ha commercial port area, and neighborhoods. Bao Vinh town, Imperial City area, Nguyen King’s Tomb area, east commercial area of ​​the Citadel, Kim Long-Vi Da garden house, Western quarter, multi-functional commercial street formed on the background of the locality. Spatial morphology of the Nui Ngu-Perfume River region. However, due to many reasons, the urban heritage fund is being degraded due to the invasion of time and the lack of human intervention. Even the efforts to restore and recreate the heritage in the region are expensive but do not bring vitality to the monument, in addition, the new construction without a strategic vision is turning Hue into a “popular city”. . According to a survey of tourists who come to Hue for the first time, they do not want to return because the attractiveness of the Heritage City is dwindling. Therefore, Hue Heritage City is currently losing its attractiveness in the competition between domestic and international heritage cities, statistics show this correlation:

• Kyoto-Japan Heritage City has a natural area of ​​827 square kilometers, a population of 1,473,746 people, and an annual number of tourists 30 million, of which about 1.2 million are international visitors.

• The Bali-Indonesia heritage city has a natural area of ​​5,780 km2, a population of 4,225,384 people, the number of international tourists 3.5 million.

• The heritage city of Siem Reap-Cambodia has a natural area of ​​10,299 km2, a population of 896,309 people, and the number of international visitors 1.6 million.

• The Hue-Vietnam Heritage City has a natural area of ​​5,062 km2, a population of 1,115,523, the number of visitors 2.4 million, of which about 0.9 million are international visitors.

The most common point is that the main economic activities of these Heritage Cities are tourism and activities related to exploiting tourism services to serve and satisfy visitors. In the competition for attractive destinations, the Cities will attract tourists and ensure an annual growth of over 10%. Many conferences and seminars have mentioned the weakness of Hue tourism industry and pointed out many reasons leading to this situation, but two important factors can be clearly seen: in planning The economic development strategy of Thua Thien Province has not yet considered tourism as a spearhead economic sector and has not had suitable measures to enhance the attractiveness of tourism products to serve the needs of domestic and foreign tourists. countries in competition with destinations in the region and the world. Although Hue is a national festival city, cultural activities are held every 2 years in the form of theatrical organization which is difficult to attract people and tourists. In addition, people still stay out of these festival activities because the organization is still heavily directed by the government and lacks the encouragement of participation from the local community – an important factor. keep the soul of cultural festivals in Heritage Cities.

8. In your opinion, to attract Hue people and Hue lovers outside Hue, what should Hue City do?

Arch.Ho Viet Vinh: The 21st century is the era of a knowledge-based economy in which the role of good and dedicated professionals is respected and created favorable conditions for dedication. Hue is the land of talented people, so many outstanding Vietnamese people have lived, studied, worked and fell in love with Hue. Having the opportunity to live and work in this Nervous land must be the dream of young intellectuals to fulfill their future ambitions. The important issue that Hue leaders must do is to seek advice and truly respect and trust to entrust important tasks to the next generation, rather than looking for people with many qualifications. In order to help Hue in the construction of the ancient capital city, one must have vision (knowledge of the ancient city), heart (love Hue), and even money. In order to attract that partner, in Hue, it is necessary to have an equal leadership team, have specific regulations, have appropriate policies, and have strong charismatic people (Hue people in Hue do not lack these people). ) Help.

9. Thank you Mr.Ho Viet Vinh

Architect Ho Viet Vinh

Next project | RETREAT HOME, Ben Tre city, Vietnam

Retreat home, nestled quietly under the canopy of the coconut forest.

Nestled quietly under the canopy of the coconut forest swaying in the gentle breeze, the simple house comes into existence thanks to the reflections of the dawn sunlight. The house has a simple modern look, inheriting the shape of a traditional house with 3 compartments and 2 wings, with a large veranda surrounding it. The veranda is a transitional space and acts as a climate regulator for the whole house. Not only that, but it is also a place where countless activities connect people with the surrounding open space. The rooms all open to the garden and the doorways pull the garden into its deepest recesses. The nuanced transitions of time and space also take place in the cut of this patio.

The house has a simple modern look, inheriting the shape of a traditional house with 3 compartments and 2 wings, with a large veranda surrounding it.
The nuanced transitions of time and space also take place in the cut of this patio.

Next project | Glay Pottery Gallery

Inspired by Professor Thai Kim Lan’s collection of more than 7000 ceramic artifacts recovered from the Perfume River, an idea was born to revitalize the artifacts to match their value. All ceramic products are born from the earth and mature through fire. The heat of the fire has hardened the earth to the test of time. Dark red painted steel will represent this tempering property. The contrasting pairs of hot-cold, hard-soft are applied in the language of placement to highlight the value of time and place.

PROJECT INFO

Type:Art Gallery
Year:2019
Location: Thai Kim Lan Garden house
Team:Ho Viet Vinh
Tran Thu Ha  

Next project | The Unveiling of Trịnh Công Sơn’s Sculpture

At 4:30 p.m. on February 28, the Trịnh Công Sơn Park in Gia Hội Ward, Huế City, will host a significant event—the unveiling of a bronze statue of Trịnh Công Sơn, sculpted by the late artist Trương Đình Quế (1939–2016). This bronze statue, weighing 500 kg, stands 170 cm tall, with a width of 230 cm and a depth of 160 cm. Its design exudes a sense of intimacy and familiarity.

The project is the culmination of years of dedication by Mr. Lê Hùng Mạnh from Gia Hòa Company in Ho Chi Minh City. The journey to place a statue in a public space was far from simple, but his passion for commemorating artists didn’t stop there—he dreams of creating similar tributes for other cultural icons, such as the poet Bùi Giáng.

The sculptor Trương Đình Quế và statue of Trịnh Công Sơn, 2007

The choice of Trương Đình Quế as the sculptor was deliberate. He was one of Vietnam’s most renowned visual artists, celebrated with numerous national and international accolades. Born in 1939, the same year as Trịnh Công Sơn, Quế graduated from the Gia Định College of Fine Arts in 1960—the very year Trịnh penned his first song, Ướt Mi. This synchronicity in their lives laid the foundation for a deep friendship rooted in a shared passion for art and music, allowing Quế to capture the essence of his lifelong friend with ease.

The statue at the park Trịnh Công Sơn

The statue took a year to complete at Giang Điền Waterfall in Đồng Nai. Reflecting on the creative process, Mr. Mạnh shared, “Trương Đình Quế and I agreed on how Trịnh should be depicted—as you now see him, leaning forward, as if gazing into a book, or perhaps into his own soul. Naturally, we couldn’t forget the ‘companion’ who stayed with him from ‘the day my mother bore me into this life of burden’ to ‘the noon field, where we met and vanished into the void’—his guitar.”

“The image of Trịnh bowing is intentional,” Mạnh explained, “and it aligns with his own lyrics: Cúi xuống. Cho tình dấy lên. Cho da thịt mềm. Cho cơn mặn nồng ngất lịm. Cúi xuống. Cho đời lãng quên. Cho mây trời chìm. Cho đêm mở hội âm thầm.

When designing the statue’s base, we collaborated with architect Hồ Viết Vinh, who envisioned it as an eye—650 cm long, 350 cm wide, and 55 cm high. This symbolic choice reflects Trịnh’s longing for human compassion: Những con mắt trần gian, Xin nguôi vết nhục nhằn. Những con mắt muộn phiền, Xin cấy lại niềm tin. Even when inspired by Bùi Giáng’s poetry, Trịnh expressed hope and tenderness: Con mắt còn lại nhẹ nhàng từ tâm. Nhìn em ra đi lòng em xa vắng. Con mắt còn lại là đêm tối tăm. Con mắt còn lại là đêm nồng nàn.

This collaboration between sculptor Trương Đình Quế and architect Hồ Viết Vinh embodies the essence of Trịnh Công Sơn’s music—where visual art and sound converge in a harmonious message of love and humanity.

The statue of Trịnh Công Sơn gazes out toward the river.

Today, as we gather to unveil this statue on Trịnh Công Sơn’s birthday, it is more than a celebration—it is the realization of a dream. With hearts full of love for his music, Mr. Mạnh and his team gift this statue to the city of Huế as a gesture of gratitude.

“With this sincere endeavor,” Mr Lê Hùng Mạnh remarked, “we are grateful for the support from the Huế City authorities and the province of Thừa Thiên-Huế, who have made this possible. Today, as the statue of Trịnh Công Sơn stands in the park bearing his name, we believe it brings joy to millions across the country who remember him. And surely, our gifted musician and his dear friend, sculptor Trương Đình Quế, would be pleased. For in life, they shared many moments of artistic communion, exchanging ideas and toasting to the beauty of creation.”

See the original article at this link.

Next project | HAPPY TEACHER’S DAY 2024

Happy Teachers will change the world.”

Zen Master Thich Nhat Hanh
Happy Teacher”s Day 2024